Tôi đã đẾn vỚi toán hỌc
như thẾ nào?

Nguyễn Hùng Sơn, GS TSKH Đại học tổng hợp Warsaw, Poland

Nhân dịp kỷ niệm 40 năm Việt nam tham gia Olympic Toán quốc tế tôi được đề nghị viết một bài báo để chia sẻ về kinh nghiệm của mình. Nghĩ mãi mà không biết viết gì vì thực ra, không giống như nhiều bạn trong đại gia đình Olympic, tôi không phải là thần đồng gì cả và tôi đến với các kì thi học sinh giỏi Toán tương đối muộn. Phần lớn các thành viên trong đội tuyển quốc gia đều là những học sinh suất sắc từ bé, đã từng nhiều lần đạt giải trong các cuộc thi học sinh giỏi cấp tỉnh hoặc quốc gia dành cho các học sinh cấp I, cấp II rồi cấp III. Nhưng tôi mãi đến năm lớp 12 mới bắt đầu có những thành tích đầu tiên. Trước đó tôi liên tục thất bại ở các cuộc thi Toán.

Sau một tuần suy nghĩ tôi thấy có thể câu chuyện về quá trình tiến bộ của bản thân từ một học sinh cá biệt trở thành một thành viên của đội tuyển quốc gia và đạt HCB tại IMO 1986 sẽ là một câu chuyện thú vị. Cũng nhân cơ hội này tôi xin khoe một chút về tập thể lớp chuyên toán niên khóa 1983-1986 cũng như ôn lại một quá khứ oanh liệt của khối chuyên tỉnh QN-ĐN trong những năm 1983-1986 với 5 giải Toán quốc tế và 2 giải Vật lý quốc tế. Hy vọng những trải nghiệm của tôi sẽ là một nguồn động viên tạo động lực giúp các em học sinh tự tin hơn trong con đường chinh phục đỉnh cao toán học.

Tôi sinh ra ở Hà Nội. Sau ngày đất nước thống nhất (tháng 10 năm 1975)  ba tôi đưa cả gia đình vào Đà nẵng để thực hiện nhiệm vụ tiếp quản đường sắt miền Trung. Năm đó tôi mới 6 tuổi nên toàn bộ cuộc đời học sinh của tôi đều gắn liền với thành phố xinh đẹp bên bờ sông Hàn này.

Lần đầu tiên tôi biết mùi thất bại là năm tôi học lớp 8. Đó là năm học 1981-1982.

Năm đó sở Giáo dục tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng đã ra quyết định thành lập thí điểm 3 lớp chuyên cấp III (lớp 10 chuyên Toán, lớp 10 chuyên Văn và lớp 10 chuyên Anh) và 2 lớp chuyên cấp II (lớp 8 chuyên toán và lớp 8 chuyên Văn). Để tuyển các học sinh ưu tú nhất vào các lớp chuyên Sở giáo dục đã tổ chức 2 vòng thi tuyển. Vòng 1 thi tại trường để chọn ra một vài đại diện của trường đi thi toàn tỉnh. Năm đó bạn Thanh Nga, Trung và tôi được đại diện trường PTCS Nguyễn Huệ đi thi. Lúc ra khỏi phòng thi, hỏi các bạn cùng thì tôi thấy mình làm được cùng số bài như Trung và nhiều hơn Thanh Nga 1 bài. Tuy nhiên một tuần sau khi thi thì tôi nhận được tin sét đánh: do năm lớp 7 tôi bị xét hạnh kiểm vào loại “trung bình” nên tôi sẽ không đủ tiêu chuẩn để được nhận vào lớp chuyên (không phụ thuộc vào điểm thi).

Xin kể thêm về lý do tôi bị hạnh kiểm trung bình. Năm tôi học lớp 7 thì ba tôi được điều ra Hà nội  học lớp Quản trị kinh doanh để chuẩn bi lên làm lãnh đạo ngành đường sắt, mẹ tôi thì lại rất hiền nên năm đó tôi được sổ lồng. Hồi đó tôi học khá các Môn Toán, Vật lý và tiếng Nga, nhưng lại rất nghịch ngợm và bướng bỉnh. Tôi đứng đầu “phe đối lập” ở trong lớp để chống lại cô giáo chủ nhiệm và các cán bộ lớp. Trong phe của tôi có toàn các bạn lớn hơn một hai tuổi vì họ là các học sinh cá biệt và bị đúp. Có lần tôi chơi dại trêu chọc một bạn tổ trưởng và bêu riếu khuyết tật bẩm sinh của bố bạn ấy (rất xin lỗi Kim Chi, bây giờ nghĩ lại vẫn còn thấy hổ thẹn), bạn ấy đã gọi anh trai và mấy anh học lớp 9 xuống “trị tội” tên nghịch đồ. Nhưng khi vừa đến gần tôi thì đã có 2 anh bạn đầu gấu nhất lớp xông ra bảo vệ và kết quả là 3 thằng lớp 7 đã đánh nhau tay đôi với 3 anh lớp 9 giữa sân trường và đã bị bắt lên phòng hội đồng. Một lần khác trong giờ ra chơi tôi khoác vai 2 ông bạn „đầu gấu” tiến đến sau lưng cô giáo dạy Vật lý và đã “đá vào mông cô giáo” với 1 suy nghĩ đơn giản là cô sẽ không chứng minh được là tôi chứ không phải 2 bạn kia là thủ phạm. Một trò tiêu khiển khác của tôi hồi đó là làm thế nào nhẹ nhàng ra vào lớp qua đường cửa sổ trong lúc cô giáo giảng bài mà cô không biết. Nhiều hôm, sau khi „vượt ngục” thành công, tôi trốn trường đi tắm ở bãi biển Thanh bình ở cuối đường Ông Ích Khiêm và đợi đến cuối giờ khi quần đùi đã khô mới quay về lớp và xách cặp ra về.  Không may cho tôi là tất cả các trò của tôi đều bị các cán bộ lớp báo cáo một cách đầy đủ và chi tiết với cô chủ nhiệm. Có lẽ cô chủ nhiệm nể ba tôi là trưởng ban phụ huynh của trường và cũng không hỏi han các bác hàng xóm về các tội danh khác của tôi lúc ở nhà (như trèo mái nhà, ăn trộm hoa quả hoặc bắt chước đại úy Đi-a-nốp trong phim „Trên từng cây số” tập nhảy tàu ở Ga Đà Nẵng trong lúc tàu chạy) nên mới không cho tôi hạnh kiểm kém.

Do quá trình thi tuyển kéo dài nên mãi đến học kì 2 các lớp mới chính thức được thành lập. Ba lớp chuyên cấp III được “gửi tạm” tại trường PTTH Phan Châu Trinh còn 2 lớp chuyên cấp II được gửi nhờ ở trường PTCS Trưng Vương. Cả 2 bạn cùng trường tôi là Thanh Nga và Trung đều được nhận vào lớp chuyên Toán. Tôi buồn nhưng có lẽ Ba tôi còn buồn hơn. Ông luôn tự hào là cựu học sinh cấp 3 trường Lê Khiết ở Quảng Ngãi trong thời chống Pháp. Đây là trường cấp 3 duy nhất thời đó dành cho học sinh của toàn bộ liên khu V (từ Quảng Nam vào đến Phú Yên) và chỉ có 2 lớp 8 và 1 lớp 9.  Ba tôi cũng là người thầy dạy toán đầu tiên của tôi. Không phải là giáo viên nhưng ông có một phương pháp rất đặc biệt là dạy toán trong bống tối để tăng khả năng tư duy trừu tượng. Hễ có thời gian là sau bữa tối 2 ba con đạp xe ra sông Hàn ngồi hóng mát và học toán khoảng 1 tiếng mới về. Sau này các em tôi không đứa nào được ông đầu tư nhiều thời gian như vậy. Vì vậy có lẽ đây là lần đầu tiên tôi thấy ông thất vọng vì tôi. Sau cái vấp đầu tiên này tôi đã quyết tâm tu sửa đạo đức, ít nhất là ở trường, để ba mẹ không phiền lòng. 

Cuối năm học 1981-1982, sở giáo dục lại tổ chức thi học sinh giỏi toàn tỉnh cho học sinh lớp 8. Có lẽ trên sở muốn kiểm tra chất lượng của lớp chuyên sau một thời gian học tập. Thành phần dự thi gồm có lớp chuyên và đội tuyển các huyện và của thành phố Đà nẵng. Do các học sinh giỏi nhất tỉnh đã vào lớp chuyên toán nên tôi được chọn vào đội tuyển 5 người  của TP Đà nẵng  đi thi với các bạn lớp chuyên. Lần đầu tiên trong đời được chọn đi học luyện thi ở Phòng giáo dục của thành phố nên tôi háo hức lắm. Tuy nhiên đúng như đã đoán trước, tất cả các giải đều lọt vào tay các bạn lớp chuyên. Tôi thì chỉ làm được khoảng 50% vì nhiều bài đọc đề còn chưa hiểu.

Nhưng rất may cho tôi và các bạn trong đội tuyển TP là kết quả của chúng tôi có lẽ cũng không phải là quá kém. Kết quả là 4 người trong đội tuyển (Thu Thủy, Quang Quân, Thành và tôi) đã được chọn bổ sung vào lớp 9 chuyên toán trong năm học 1982-1983. Ba mẹ mừng lắm nên đã quyết định thưởng cho tôi một chiếc xe đạp để đi học. Tuy nhiên ba tôi bảo làm con trai thì phải biết tự sửa xe, mà muốn biết sửa xe thì phải biết lắp xe. Hè năm đó ba dẫn tôi ra chợ Cồn mua toàn bộ phụ tùng xe đạp về lắp và trong 1 tháng hè tôi đã biết tháo ra rồi lại lắp vào chiếc xe đạp đến 2 lần.

Năm học 1982-1983 có lẽ là một năm bản lề trong cuộc đời học sinh của tôi. Tôi choáng ngợp vì trước đó tôi chưa từng gặp nhiều bạn học giỏi toán hơn mình đến như thế. Lần đầu tiên trong đời tôi đã tự giác ngồi học bài ở nhà buổi tối mà không cần ai nhắc. Nếu như trước đó hễ có thời gian rỗi là tôi xin ba mẹ đi tập bóng bàn thì nay tôi đã có một niềm đam mê mới, đó là môn Toán. Chủ nhiệm lớp tôi là thầy Huỳnh Hường. Tôi rất biết ơn thầy Hường vì thầy là người đầu tiên tạo cho tôi một niềm cảm hứng khi học toán. Ngoài những bài giảng trên lớp và những bài tập về nhà rất hay có hệ thống, thầy còn tổ chức phong trào thi đua tự ra đề và tự tìm lời giải đẹp. Thời đó chưa có internet nên nguồn tài liệu duy nhất là thư viện và hiệu sách. Chúng tôi say sưa tìm tòi, khám phá, tự động chia thành các nhóm học tập để tìm ra những bài toán hay và lạ nhất. Đến cuối năm lớp 9, chúng tôi đã gửi lại thầy Hường một tuyển tập các bài toán mà chúng tôi đã sưu tầm và sáng tác trong suốt gần một năm. Lần đầu tiên trong đời tôi được nhận học bổng trị giá 100 nghìn đồng/tháng. Số tiền này hồi đó to lắm vì tôi còn nhớ một bát „bún bò giò heo” trước cửa nhà tôi giá chỉ từ 500 đến 1000 đồng.

Lớp có 24 người nhưng chỉ có Lâm Tùng Giang và Nguyễn Ngọc Văn Khoa là học giỏi nổi trội hơn hẳn các bạn còn lại. Hai bạn này đã được tham gia cuộc thi học sinh giỏi Toán cấp II từ năm lớp 8. Ngoài ra còn rất nhiều „cao thủ” khác như Trần Hữu Luyện (em của anh Trần Hữu Huấn - giải ba Vật lý quốc tế -1982), Nguyễn Hồ Anh Nguyên, Trần Quân, Nguyễn Phú Quý, Đỗ Kim Luân, Lê Trung Hùng ... Vì là học sinh bổ sung nên đầu năm lớp 9 tôi chỉ là trung bình trong lớp và còn thua kém rất nhiều nhóm dẫn đầu. Tuy nhiên vào đầu học kỳ II, với sự giúp đỡ của thầy và bạn, tôi thấy mình đã tiến bộ rất nhiều.  Kỳ thi học sinh giỏi lớp 9 toàn tỉnh năm ấy, tôi rất hy vọng vì tôi cảm thấy mình đã tiệm cận rất gần đến „top 10”.

Nhưng một lần nữa tôi lại phải nếm mùi thất bại! Tôi chỉ làm được 2 trong 5 bài và không được giải gì cả.

Năm đó lớp tôi đã giành hết các giải. Tôi không hề ngạc nhiên khi các bạn học giỏi nhất lớp đạt thành tích cao, nhưng điều làm tôi cảm thấy buồn là các bạn học ngang tầm với tôi cũng được giải. Năm đó Giang, Khoa, Luyện, Nguyên còn tham gia và được giải trong kỳ thi học sinh giỏi Toán cấp II toàn quốc.

Hè năm 1983 nhân dân tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng hân hoan đón nhận tin vui. Anh Trần Nam Dũng, học sinh lớp 11 chuyên toán, đã đạt huy chương bạc olympic Toán quốc tế đầu tiên cho tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng. Chúng tôi cũng mừng và ngưỡng mộ anh Dũng lắm. Hè năm đó tôi thường xuyên đến chơi nhà bạn Lê Tuấn, sát vách với nhà anh Dũng, để thỉnh thoảng chiêm ngưỡng con người đặc biệt này.

Năm học 1983-1984 chúng tôi vào học cấp III ở trường PTTH Phan Châu Trinh và phải thi tuyển vào lớp 10 chuyên toán. Trong thời gian chờ đợi kết quả thi tuyển chúng tôi được gửi tạm vào lớp 10/2 do thầy Võ Tiến làm chủ nhiệm. Do nôn nóng nên ngày nào chúng tôi cũng hỏi thầy đã có kết quả xét tuyển chưa. Có lần thầy Tiến bực mình dọa chúng tôi là năm nay tỉnh không tổ chức lớp chuyên nữa, các em nên tập trung ở lại lớp 10/2 mà học đi. Trong thời gian đó tôi chẳng muốn học hành gì cả. Thời đó ở Đà nẵng bắt đầu xuất hiện khối Rubik nên tôi lao vào tìm hiểu và luyện tập. Kết quả là tôi đã biết quay rất nhanh nhưng bài kiểm tra 1 tiết về logic và lý thuyết tập hợp tôi đã bị xơi con „ngỗng” đầu tiên trong đời học sinh.

Chờ mãi đến đầu tháng 10 thì khối chuyên gồm chuyên Toán, chuyên Lý, chuyên Hóa, chuyên Văn và chuyên Anh mới được thành lập. Lớp 10 chuyên toán có 18 bạn, trong đó có 14 nam và 4 nữ do thầy Nguyễn Cung Nghi làm chủ nhiệm. Ngoài ra còn có thầy Phò và thầy Xuyên dạy chúng tôi các môn Toán chuyên đề. Điều mà cá nhân tôi sung sướng nhất là điểm 2 của tôi ở lớp 10/2 đã không bị ghi vào học bạ.

Thời gian này tôi đã vươn lên đứng thứ 9-10 trong lớp. Lâm Tùng Giang và Nguyễn Ngọc Văn Khoa vẫn là 2 ngôi sao học giỏi nhất lớp nên Giang được bầu làm lớp trưởng còn Khoa làm bí thư chi đoàn. Chúng tôi hăng say giải bài và nộp bài cho báo Toán học và Tuổi trẻ. Các bạn lớp tôi liên tục được đăng tên trong báo. Về sau này tôi mới biết là Lâm Tùng Giang gửi bài nhiều đến mức thỉnh thoảng phải dùng đến một cái tên giả để gửi nhiều lời giải cho một bài. Tôi cũng học tập các bạn và tham gia giải bài. Tuy nhiên số bài tôi gửi không nhiều vì tôi viết chữ xấu lại hay gạch xóa nên hay ngại gửi lời giải ra tòa soạn.

Năm lớp 10 là năm chúng tôi vô tư và và vui vẻ nhất, và một lần nữa bản năng hiếu động và nghịch ngợm của tôi lại được phát huy. Trò chơi chúng tôi mê nhất là đá bóng. Mặc dù bác bảo vệ trường liên tục đuổi bắt và thu bóng, nhưng bất kì giờ giải lao nào dù 10-15 phút chúng tôi đều tranh thủ đá bóng. Chúng tôi có 2 trận derby kinh điển không phân thắng bại kéo dài suốt 3 năm cấp III. Thứ nhất là trận nội bộ giữa đội cao và đội lùn, trận derby thứ hai là giữa 2 lớp chuyên Toán và chuyên Lý.

Hè năm 1984 chúng tôi lại được đón nhận một tin vui. Hai anh Nguyễn Văn Hưng (11CT) và Võ Thu Tùng(12CT) đã giành thêm một giải nhì và một giải ba Olympic toán quốc tế. Đây là lần duy nhất từ trước tới nay Đà Nẵng đạt 2 huy chương trong một kì thi Olimpic Toán quốc tế.

Vào lớp 11, Sở Giáo dục đã mời được thầy Ngô Thế Phiệt từ ÐHTH Huế vào dạy và làm chủ nhiệm lớp chúng tôi. Thầy Phiệt đã đưa vào lớp một phong cách học tập mới hơi giống trên đại học. Thầy đưa về hàng loạt tài liệu mà trước đó chúng tôi không thể tìm được ở TP Đà nẵng. Đó là các tạp chí và tuyển tập toán nước ngoài của Nga, Ba lan, Hung-ga-ri. Mỗi người trong chúng tôi đều tìm được cho mình một vài dạng toán yêu thích. Tôi còn nhớ Giang thì say mê về đa thức, Trần Quân thích hình phẳng, Phú Quý thích hình giải tích, Anh Nguyên và Hữu Luyện thì rất thích các bài lý thuyết số và bất đẳng thức. Riêng tôi thì say sưa nhất với toán rời rạc, toán tổ hợp và lý thuyết đồ thị. Lần đầu tiên được tiếp xúc với dạng này nên tôi mê lắm. Tôi lục lọi các số cũ của Toán học và Tuổi trẻ để nghiền ngẫm về dạng toán này.

Năm đó chúng tôi giúp nhau học tập bằng cách tìm nhiều lời giải khác nhau cho một bài toán. Tôi cùng một cặp với Phú Quý (đã mất năm 2004) để giải các bài hình học. Và tôi rất phục Quý vì không phải lúc nào lời giải hình giải tích của Quý cũng dài hơn lời giải cổ điển của tôi. Chúng tôi cũng liên tục gửi lời giải cho báo Toán học và Tuổi trẻ. Trong cuộc thi giải toán chào mừng các ngày lễ lớn năm 1985 trường Phan Châu Trinh Đà Nẵng đã đạt giải Ba trong các đơn vị có tổng số điểm cao nhất (sau khối chuyên DHTH Hà Nội, và khối chuyên DHSP Hà Nội). Riêng Lâm Tùng Giang và Nguyễn Ngọc Văn Khoa đều được giải đặc biệt cho học sinh có nhiều lời giải hay nhất.

Chúng tôi rất tự tin bước vào cuộc thi học sinh giỏi toàn tỉnh năm 1985 và chọn đội tuyển đi thi toàn Quốc. Năm đó lớp tôi rất thành công. Trong đội tuyển 8 người của tỉnh QNĐN lớp tôi đã chiếm 7 vị trí, người thứ 8 là anh Đinh Thành Pháp lớp 12CT. Tôi thì vừa mừng và vừa buồn. Mừng vì lần đầu tiên được giải ba toàn tỉnh nhưng buồn vì không được chọn vào đội tuyển. Theo các thầy nói lại thì năm đó tôi là người đứng đầu trong những người bị loại.

Tuy học rất hăng say nhưng chúng tôi vẫn không quên „chơi”. Có những trận bóng căng thẳng đến mức giờ học đã bắt đầu và thầy Phiệt đã lên lớp chờ gần 10 phút mà vẫn không thấy ai ngoài các bạn nữ. Hôm đó thầy bực mình lắm. Thầy bắt cả lớp làm bản kiểm điểm kể cả lớp trưởng và bí thư chi đoàn, kể cả các bạn nữ vì tội biết là đã hết giờ mà không gọi các bạn nam lên lớp. Chúng tôi còn chơi cả trong giờ học. Có những hôm, từ sáng đến chiều, tôi và Trần Quân chơi cờ ca-ro trong giờ học để so sánh cách đi trước của thằng nào hiệu quả hơn.

Kể từ năm 1985 sở Giáo dục đã quyết định mời các thầy ở Hà nội vào dạy cho đội tuyển. Năm đó tôi nhớ có thầy Văn Như Cương và thầy Nguyễn Thu vào dạy, nhưng vì không ở trong đội tuyển nên tôi không được tham gia. Vì thiếu mất 7 cầu thủ đá bóng nên đợt đó chúng tôi chuyển sang chơi một môn mới là „banh bàn” có nghĩa là bóng bàn nhưng lại dùng quả banh nhựa để chơi. Chúng tôi dùng bàn học thay bàn bóng, dùng sách để thay lưới  và dùng tay không để thay vợt. Chúng tôi chơi thua ra được vào và có thể đánh đơn hoặc đánh đôi. Trò chơi này chúng tôi tiếp tục đến hết năm lớp 12.

Năm đó đội tuyển tỉnh QNĐN có 3 người được giải là Giang, Nguyên và anh Pháp. Sau vòng thi chọn đội tuyển Quốc gia thì chỉ còn mỗi Lâm Tùng Giang  được chọn đi thi Quốc tế tại Phần lan. Năm đó một lần nữa Lâm Tùng Giang đã đem thêm một tấm huy chương bạc Olympic Toán quốc tế về cho tỉnh QNĐN.

Sau thất bại trên tôi bắt đầu thấy „cay mũi”. Tôi quyết tâm năm sau phải cố gắng đạt giải trong kì thi Toán toàn quốc. Tôi đã ra một kế hoạch là trong thời gian các bạn học đội tuyển tôi sẽ tranh thủ học hai môn Lý và Hóa để đảm bảo thi đại học điểm cao. Môn Toán thì đã có thầy Phiệt dạy trên lớp, môn Vật lý là môn tôi rất thích nên tôi tự học được còn môn Hóa thì tôi đi học thêm ở lớp của cô Thúy dạy chuyên Hóa. Kỳ thi đại học hè năm 1985 tôi có làm thử và nhờ các thầy cô chấm. Kết quả dự đoán tôi được khoảng 26-27 điểm vì vậy tôi thấy tự tin và có thể an tâm chuẩn bị cho kì thi Toán toàn tỉnh và toàn quốc năm 1986.

Cũng hè năm 1985 tôi ra thăm Hà nội và được biết thêm một thông tin là trong đội tuyển VN năm 1985 có bạn Huỳnh Minh Vũ và cũng giống như Lâm Tùng Giang, bạn ấy cũng được Huy chương Bạc. Nhưng một điều thú vị tình cờ là ba của Vũ, ba của Giang và ba của tôi lại học cấp III cùng nhau ở trường Lê Khiết. Tôi có đến chơi và chúc mừng Vũ và cũng hỏi han kinh nghiệm thi cử. Trước khi vào TP Hồ Chí Minh học tiếng Nga để đi du học Giang cũng cho tôi một số tài liệu rất quý và bổ ích. Ngoài ra Giang còn mách là có một em ở lớp 10 chuyên Nga có nhiều tạp chí KVANT cất ở nhà.

Năm học lớp 12 tôi được bầu làm lớp trưởng thay Lâm Tùng Giang. Đây là lần đầu tiên tôi có „chức” vì trước đó chưa bao giờ tôi được bầu vào ban cán sự lớp, thậm chí làm tổ phó. Nhờ có nhiều tài liệu và có sức khỏe tốt nên tôi tiến bộ rất nhanh. Tôi đã đứng đầu trong kì thi học sinh giỏi toán toàn tỉnh năm 1986 và được chọn vào đội tuyển tỉnh đi thi toàn Quốc. Mặc dù vậy tôi coi kết quả cuộc thi toàn tỉnh là may mắn vì thực lực tôi vẫn kém Khoa, Nguyên, Luyện và có lẽ chỉ ngang hàng với khoảng 4 bạn khác trong lớp. Năm 1986 trong đội tuyển của tỉnh lớp tôi lại đóng góp 7 thành viên, người thứ 8 là Đinh Thành Việt (11CT).

Năm đó thầy Đỗ Đức Thái vào dạy luyện thi cho đội tuyển đi thi toàn quốc. Việc đầu tiên thầy không cho chúng tôi gọi là thầy mà phải gọi là anh. Tôi thực sự quý mến anh vì lòng yêu nghề, sự gần gũi và khâm phục khả năng sư phạm. Sau này tôi mới biết là anh đã dạy chúng tôi gần hết giáo trình học kỳ 1 môn Giải tích của đại học. Nhờ có sự chuẩn bị tốt và tập trung cao độ tôi cảm thấy như năm lớp 12 tôi nắm rất rõ các bài giảng của các thầy và còn dễ dàng tổng quát phát triển các bài đó. Ngoài ra tôi đã học được khả năng tự đánh giá lời giải của bản thân và cũng biết kỹ thuật trình bày lời giải một cách gọn gàng, sáng sủa.

Kỳ thi toán toàn quốc năm đó đội tuyển tỉnh QNĐN có 6 người được giải. Tôi làm không được tốt lắm và chỉ được giải ba toàn quốc, nhưng tôi cũng rất mừng với cái giải toàn Quốc đầu tiên trong đời. Năm đó cũng là năm đầu tiên kì thi chọn đội tuyển được tổ chức ở 2 nơi: miền Bắc thi ở Hà Nội, miền Nam thi ở TP Hồ Chí Minh. Chúng tôi vào Sài gòn với một hy vọng là một trong 6 thằng sẽ được chọn vào đội tuyển toàn quốc để tiếp tục truyền thống của khối chuyên tỉnh QNĐN. Người chúng tôi hy vọng nhất là Nguyễn Ngọc Văn Khoa vì Khoa đã có kinh nghiệm thi cử và là người có vốn kiến thức cao hơn hẳn 5 thằng còn lại.

Lần đầu tiên vào Sài gòn tôi thấy cái gì cũng lạ nhưng chúng tôi không được đi chơi ở đâu cả. Điều tôi nhớ nhất là đó là lần đầu tiên tôi nằm ngủ mà không phải mắc màn. Đây không phải lần đầu tiên đi thi vì trước đó, ngoài những kỳ thi học sinh giỏi tôi đã từng thi đấu ở giải vô địch bóng bàn toàn quốc ngành Đường Sắt, vả lại ở lần thi này không ai trông đợi vào kết quả của tôi cả. Mặc dù không bị sức ép nhưng kể cả trước đó và sau này chưa bao giờ tôi thấy hồi hộp và lo lắng trước giờ thi như vậy. Buổi sáng của ngày thi thứ nhất tôi cảm thấy tim đập mạnh, tay chân bủn rủn và có một luồng điện chạy qua xương sống. Phải mất khoảng 20’ hít thở sâu tôi mới trấn tĩnh trở lại. Ngày thứ nhất tôi làm được trọn vẹn 2 bài trên tổng số 3 bài. Sau khi thảo luận với nhau chúng tôi biết là bài số 3 rất khó, không ai trong miền Nam làm được.

Ngày thi thứ hai tôi đã chủ động dậy sớm hơn để tập hít thở sâu. Tuy nhiên cũng giống như hôm trước, tôi lại bị hồi hộp và bị một dòng điện chạy qua sống lưng ở ngay trước phòng thi. Tôi lại phải mất mấy phút mới trấn tĩnh được. Mặc dù không phải là người mê tín nhưng cho đến bây giờ tôi vẫn tin là hai hôm đó tôi đã được một sức mạnh vô hình nào đó tiếp sức. Sau khi mở bài thi tôi đã không tin được vào mắt mình. Bài số hai của ngày thứ hai là một bài dạng bất biến trên bàn cờ. Tôi đã đọc nhiều về dạng này trong tạp chí Toán học& Tuổi trẻ, đã luyện tập rất nhiều dạng toán này và đã tự nghĩ ra nhiều loại bất biến mới, thậm chí còn đủ khả năng để nghĩ ra một vài bài toán khó trong dạng này. Chỉ mất 30 phút tôi đã làm xong bài số 2. Trong thời gian còn lại tôi chỉ làm thêm được một bài nữa. Như vậy sau 2 ngày thi tôi đã làm được 4 bài và qua trao đổi với các bạn khác tôi biết là nếu không bị nhầm lẫn thì tôi là người làm tốt nhất ở miền Nam.

Hôm về đến Đà Nẵng thầy Phiệt có hỏi cả đoàn về cuộc thi. Khi đọc đề thi và biết tôi làm được 4 bài thầy nói thế thì em chắc chắn được chọn rồi. Tuy vậy tôi biết là khả năng mình được chọn rất mong manh vì qua báo Toàn học và Tuổi trẻ tôi biết các bạn ở miền Bắc năm đó rất giỏi. Những cái tên như Phùng Hồ Hải, Cao Vi Ba, Nguyễn Hữu Tuấn, Đặng Vũ Sơn, Nguyễn Quảng Cường, Nguyễn Thế Cường của khối chuyên toán A0 ĐHTH Hà Nội, và Ngô Hoàng Huy, Phạm Quốc Cường, Hà Anh Vũ, Nguyễn Phương Tuấn, Nguyễn Quang Thái, Lê Thanh Nam ở khối chuyên toán của ĐHSP Hà Nội đã rất nổi tiếng trong báo hồi đó và cho đến bây giờ vẫn là những tấm gương sáng của tôi về niềm say mê học toán.

Năm đó lại có tin đồn là do khó khăn tài chính nên chưa chắc nhà nước đã cử đoàn đi thi IMO. Sau này chúng tôi mới đó là tin đồn có sơ sở vì năm đó Việt nam đã không cử học sinh đi thi Vật lý quốc tế. Rất may đội tuyển thi Olympic Toán quốc tế vẫn được đi.

Sau khoảng 1 tháng thì chúng tôi mới biết kết quả tuyển chọn. Vào một buổi trưa tháng tư, bác tôi ở Hà nội gọi vào báo là hình như đã có kết quả chính thức và nghe nói đội tuyển năm nay có một học sinh ở Đà nẵng. Vì quá hồi hộp và xúc động nên đó là lần đầu tiên trong suốt 3 năm học cấp III tôi đã không xuống chơi bóng với các bạn. Giờ Toán chiều hôm đó tôi còn nhớ thầy Phiệt bước vào lớp và nhìn tôi tủm tỉm cười. Sau khi thầy chính thức thông báo việc tôi đã được chọn vào đội tuyển quốc gia thì tôi đã gần như không còn nghe thấy gì nữa. Chỉ biết là thầy và tất cả các bạn đều òa lên sung sướng chúc mừng.

Đội tuyển năm 1986 gồm có 4 bạn lớp 11 là Phùng Hồ Hải, Nguyễn Tuấn Trung (khối chuyên toán ĐHTH Hà Nội) Hà Anh Vũ, Nguyễn Phương Tuấn (khối chuyên toán ĐHSP1 Hà nội) và 2 bạn lớp 12 là Đoàn An Hải (trường chuyên Phan Bội Châu) và tôi.  Cũng như những năm trước đó, chúng tôi được gọi ra Hà nội tập huấn khoảng 2 tháng trước khi đi thi. Địa điểm tập trung là trường ĐHSP1 Hà Nội. Chúng tôi được phân một phòng ngủ và một phòng học và được hưởng một chế độ ăn uống đặc biệt do nhà ăn của trường ĐHSP nấu. Lần đầu tiên tôi được học với nhiều thầy giáo dạy chuyên toán nổi tiếng như vậy. Ngoài anh Đỗ Đức Thái tôi đã gặp trước trong Đà nẵng cón có thầy Nguyễn Văn Mậu, thầy Thanh Sơn, thầy Long, thầy Nguyễn Đăng Phất, anh Nguyễn Minh Đức, anh Lê Hải Khôi.

Sau một tuần thì tôi nhận ra cả 4 bạn Hà nội đều học giỏi hơn Đoàn An Hải và tôi. Nhiều bài giảng và bài tập của các thầy đều là mới với tôi nhưng với các bạn Hà nội lại là những dạng bài tập quen thuộc. Nếu như trước đó mong được chọn vào đội tuyển bao nhiêu thì lúc này tôi lại lo lắng bấy nhiêu. Tôi cũng biết mình đã rất may mắn khi được chọn vào đội tuyển. Vì vậy tôi lo không biết mình có đủ khả năng đại diện cho lớp, cho trường, cho tỉnh và cho quốc gia trong kì thi sắp tới hay không. Tôi đã học say sưa như chưa bao giờ được học. Năm đó có giải World Cup ở Mexico nhưng tôi đã quyết không xem để có thêm nhiều thời gian học và theo kịp các bạn trong đội tuyển. Trận duy nhất tôi được xem là trận chung kết giữa Argentina và CHLB Đức vài ngày trước ngày chúng tôi lên đường tham dự IMO lần thứ 27 tại Ba lan. Chỉ trong thời gian 2 tháng tôi thấy mình đã học được nhiều hơn so với suốt một năm trước đó. 

Trưởng đoàn của chúng tôi năm đó là thầy Đoàn Quỳnh và phó đoàn là thầy Nguyễn Văn Mậu. Hà Anh Vũ đã suất sắc lập thành tích đạt huy chương vàng. Đoàn Việt nam đứng thứ 10 toàn đoàn (1 vàng, 2 bạc và 2 đồng). Mặc dù rất mừng với giải nhì của mình, nhưng cho đến bây giờ tôi vẫn còn rất hối hận vì đã làm mất 2 điểm của bài 4 (quỹ tích) và 1 điểm của bài 5 (phương trình hàm) do quên không xét một số trường hợp đặc biệt. Nếu không bị những lỗi ngớ ngẩn này thì năm đó Việt nam đã lên vị trí thứ 9.

Các thành viên của đội tuyển quốc gia được đặc cách tốt nghiệp phổ thông trung học và được nhà nước phân công đi học đại học ngành Toán ở nước ngoài. Phùng Hồ Hải và Nguyễn Phương Tuấn được đi Liên xô (cũ), Hà Anh Vũ và Đoàn An Hải đi Hungari còn Nguyễn Tuấn Trung và tôi đi Ba lan.

Với hành trang kiến thức học được của các thầy và các bạn, tôi đã tự tin đến với Toán học như thế đó.